Tương truyền trên đỉnh núi hoa sơn có ngôi điện thờ Hoa Nhạc Thánh Mẫu vô cùng linh thiêng bởi nơi đây là nơi cây đèn Bảo Liên Đăng ngự trị, cây bảo đăng này có uy lực vô song, ánh sáng của nó dung chứa sức mạnh có thể lung chuyển đất trời và chính nó là linh vật trấn sơn do ban cho Tam Thánh Mẫu. Cách Hoa Sơn trăm dặm là nơi con người sinh sống, từ bao năm nay nơi này bị bệnh dịch hoành hành, chết người vô số. Thêm vào đó, các loài độc trùng mãnh thú thường quấy phá sát hại dân làng, cuộc sống của họ rơi vào khốn cùng. Lúc này, các thân sĩ uy tín đã cùng nhau họp bàn tìm cách cứu thoát muôn dân, Mạnh lão tiên sinh khuyên mọi người nên đi lên đỉnh Hoa Sơn dâng lễ bày tỏ với vị sơn chủ ở đây là Thánh Mẫu Nương Nương cầu xin người cứu giúp. Sau mấy hôm thì dân chúng đã chuẩn bị xong lễ vật, họ lên núi quét dọn đền đài, bày hương đăng trà quả hành lễ cúng bái.
Lại nói về Tam Thánh Mẫu của Hoa sơn, bà đã phải trải qua tu luyện mới đạt được Thần vị này, sắc phong bà là Thần cai quản Hoa sơn, mỗi ngày tiêu dao tự tại, sống những ngày tháng Thần Tiên. Bỗng nhiên một ngày bách tính kéo đến cúng bái, Thánh Mẫu nói với Triều Hoa thị nữ bên cạnh điều gì đó. Vào đêm hôm ấy, Mạnh lão tiên sinh mơ thấy một nữ nhân mặc triều phục lộng lẫy cầm đèn hoa sen bay đến nói rằng: “Ta vâng lệnh Thánh Mẫu đến đây nói cho các người biết rằng, những hoạch nạn bấy lâu xảy ra là do các người không biết hành thiện tích đức, sống chỉ biết tham lam, sân si, thù hận nhau. Tất cả đều là do ông Trời muốn cảnh tỉnh các người mới ban xuống điềm xấu ấy, từ hôm nay hãy thật tâm sám hối, một lòng hướng thiện. Như vậy thì không cần cúng bái, Nương Nương vẫn sẽ phù hộ các người.” Nói xong, Triều Hoa giơ cao ngọn Bảo Liên Đăng, ánh sáng chiếu xa trăm dặm chói lòa, đến lúc mở mắt thì không còn thấy người đâu. Mạnh lão giật mình tỉnh giấc, ông đem chuyện kể cho dân làng nghe thì ai cũng nằm mơ thấy cùng một giấc mơ như vậy. Vùng Hoa Sơn trở thành nơi sinh cư lạc nghiệp bởi người dân biết sống lương thiện, vùng ấy trở thành vùng đất lễ nghĩa. Thánh Mẫu thi triển thần thông, chướng khí đều bị đẩy lùi, độc trùng chết hết, non xanh nước biếc khắp cả một vùng rộng lớn, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Người dân vùng này, đều biết Hoa Sơn Thánh Mẫu linh thiêng, trong đền Thánh Mẫu mỗi ngày hương khói không ngừng.
Một ngày kia, có chàng thư sinh đi lên núi hướng thẳng về phía ngôi đại hùng bảo điện, Thánh Mẫu nghe lời thỉnh cầu của anh ta: “Tiểu sinh Lưu Ngạn Xương, đến kinh thành thi cử, kính dâng một nén hương, xin nương nương phù hộ tiểu sinh ghi danh bảng vàng.” Lúc nhìn vào bức tượng Thánh Mẫu, Ngạn Xương lại thầm nghĩ: “Nương nương này phong thái yểu điệu, dung mạo vô song như thế này, thật không khỏi khiến lòng người ái mộ!” Tam Thánh Mẫu cảm thấy tên người phàm kia chính là đang giễu cợt mình, bản thân đọc sách thánh hiền mà lại không có chút lễ nghĩa. Người vừa muốn thi triển một chút phép thuật để cảnh báo hắn thì thị nữ vào báo rằng có đến thăm. Tam Thánh Mẫu tiếp đón Nguyệt Lão, vừa đến nơi ông đã báo đây chính là tin hỷ sau đó đưa sổ tình duyên cho bà xem. Trong sổ, sợi chỉ đỏ nối tên Hoa Sơn Công Chúa và Lưu Ngạn Xương, đúng ngày đúng tháng sẽ kết duyên vợ chồng. Nguyệt Lão thấy vẻ mặt của Thánh Mẫu liền hỏi: “Công chúa có còn nhớ Tam Lang của Lý Gia chăng?”
Việc này làm sao bà quên được, lúc sinh vào triều nhà Chu, bà chuyển sinh vào một gia đình giàu có tên là Nguyên Chân, từ nhỏ được hứa hôn với một đại công tử. Vị công tử này họ Lý, mọi người gọi là Tam Lang, tài mạo song toàn, phong tư tuyệt thế. Tam Lang này từ lúc định sẵn thê thất, nghe nói tiểu thư Nguyên Chân tứ đức vẹn toàn, dung mạo như tiên, trong lòng vô cùng hạnh phúc, nhưng lại không ngờ rằng vị tiểu thư vừa mới chào đời, đã không ăn đồ mặn, không mặc lụa là; lớn lên một chút, chỉ một lòng hướng Đạo. Cha mẹ ngăn cấm không được, chị em khuyên cũng không xong. Đến khi hơn mười lăm tuổi, tự dưng bỏ nhà ra đi. Công tử Lý hay được tin này, khóc lóc thảm thương, thổ huyết mà chết. Nguyên Chân tiểu thư sau khi trải qua mấy năm khổ tu đã thành Đạo quả, được Thượng Đế phong là Nguyên Chân phu nhân, sắc phong chức vị Hoa sơn Thánh Mẫu, nhưng vì công tử đó vì cô tuẫn tình mà chết, theo lý nhân quả luân hồi, phu nhân vẫn còn nợ công tử đó một món nợ tình cảm nhân duyên. Nghĩ đến đây, bất giác sững sờ. Lưu Ngạn Xương này chính là Tam lang Lý gia kia chuyển sinh.
Lại nói về Lưu Ngạn Xương, đi đường cả ngày mệt nên anh dựa vào góc tường ngủ say, Triều Hoa thị nữ nhập mộng báo điềm đại hôn sẽ được cử hành ngay hôm nay. Thoáng đó chàng đã thấy Nguyệt Lão làm chủ hôn, Triều Hoa theo sau, mấy cô thị nữ vây quanh Hoa Sơn Công Chúa, đầu đội khăn đỏ trùm lấy mũ phượng như tục lệ nhân gian, đối diện Nguyệt lão, bái thiên địa xong, rồi vào tân phòng. Nhìn thấy Ngạn Xương phong tư tuyệt thế, tuấn tú phi phàm nhưng Công chúa lại tự dặn lòng mình không được động ái tình, nếu không sẽ mất ngay Thiên căn.
Ba tháng sau, Lưu Ngạn Xương đã đến lúc phải đến kinh thành ứng thí, nàng Hoa Sơn bấy giờ đang mang trong mình hài nhi. Trước khi đi phu quân để lại cho nàng một miếng trầm hương gia bảo, căn dặn khi nào hạ sinh hãy đặt tên con là Trầm Hương và dùng trầm hương làm dấu hiệu. Chuyện kể rằng Lưu Ngạn Xương, sau khi từ biệt Thánh Mẫu, rời khỏi núi Hoa Sơn, suốt dọc đường ngày đi đêm nghỉ, cuối cùng đã đến Kinh Thành. Trong ba kỳ thi liên tiếp, đều đỗ được vị trí cao, dĩ nhiên là được ghi danh bảng vàng, được phong làm quan thất phẩm, không lâu sau đã được hoàng thượng phái đến Đăng Châu làm huyện lệnh. Sau khi Lưu Ngạn Xương đến nhậm chức, nhớ kỹ lời dặn của Thánh Mẫu, một lòng muốn làm một vị quan thanh liêm, một vị quan tốt. Không lâu sau, lại có người đến mai mối, nói rằng họ Vương vùng đó cũng là dòng dõi thư hương, có một cô con gái tên là Tú Anh. Chàng nhớ lại những lời của Thánh Mẫu nương nương, nghe nói nhà họ Vương là gia đình gia giáo, an phận thủ thường, cô con gái có tri thức, am hiểu lễ nghĩa, vốn nổi tiếng là người hiền đức. Liền tìm người trao đổi bát tự, chuẩn bị sính lễ, không lâu đã lấy vợ thành hôn. Tú Anh họ Vương kia, thông minh xinh đẹp, mỗi ngày vợ chồng gặp nhau, hết lòng tương kính, những tháng ngày này cũng có thể nói là vô cùng hạnh phúc.
Một hôm vợ chồng Ngạn Xương đi dạo qua hồ sen, từ xa có người ngồi thuyền, thuyền tự xuôi theo dòng nước đến chỗ họ, lúc đối mặt chàng mới nhận ra nàng Triều Hoa. Triều Hoa nói: “Nương nương đầy tháng, sinh hạ bé trai, đặt tên Trầm Hương. Tiên giới không thể ở lâu được, hôm nay nương nương lệnh cho Triều Hoa trao gửi lại con, ngày sau xin được nhờ cậy công tử, phu nhân đối xử tốt với đứa bé này, có thể nuôi nấng thành người”. Trong lòng Ngạn Xương trăm mối cảm xúc, bất giác hỏi về Hoa Sơn Công Chúa. Triều Hoa u buồn: “Nương nương với công tử, tiên phàm kết duyên, phạm phải luật trời, đã bị anh trai là Nhị Lang Chân Quân thi hành luật trời, đè dưới núi Hoa Sơn chịu khổ rồi”. Triều Hoa đưa cho chàng một bức thư căn dặn khi nào Trầm Hương khôn lớn hãy mở ra xem. Nói xong Triều Hoa biến mất.
Vợ chồng Lưu Ngạn Xương và Vương Thị tận lực chăm sóc đứa trẻ, Nhìn thấy đứa bé này ngày một lớn lên, rồi một năm đã trôi qua, Vương thị phu nhân cũng đã mang thai sinh hạ một đứa bé trai, đặt tên là Thu Nhi. Hai đứa con cùng cưu mang, thương yêu như nhau, đối đãi như nhau. Một hôm Trầm Hương và Thu Nhi hốt hoảng chạy về thưa chuyện, thì ra lúc sáng đi học gặp Tần Quân Bảo là con trai là con của Tần thái sư, tính tình ngang ngược, bạo tàn, hay ức hiếp kẻ khác. Không chịu nổi sự tình Trầm Hương và Thu Nhi ẩu đã với Quân Bảo, vô tình đánh trúng thái dương, Quân Bảo yểu mệnh về chầu Diêm Vương. Về phần Vương phu nhân, nghĩ đến Trầm Hương từ nhỏ chịu cảnh không mẹ, sau lúc đắn đo cũng quả quyết với Lưu Ngạn Xương rằng hãy đem Thu Nhi giao nộp cho thái sư, trong lúc đó Trầm Hương phải mau chóng chạy trốn khỏi tai ách này. Lưu đại nhân nhớ lại lá thư Tam Thánh Mẫu gửi cho mình vào tám năm về trước, ông lập tức mang nó ra xem. Trầm Hương còn nhỏ tuổi, tính tình hiếu thắng ngông cuồng vẫn còn muốn tự mình đền mạng nhưng thử hỏi thái sư có cần cái mạng của tên nhóc con này hay không? Sát hại con trai của mệnh quan triều đình chắc chắc không thoát khỏi tội tru di. Sau khi đọc được lá thư của mẹ, biết mẫu thân chịu khổ trăm bề dưới ngọn hùng sơn, Trầm Hương lạy tạ phụ thân cùng kế mẫu bấy lâu đã mang công dưỡng dục và dứt áo ra đi. Trầm Hương vừa đi đã nghe tiếng quan quân nhà họ Tần lục soát hỗn loạn.
Tiểu Trầm Hương tám tuổi này, chỉ trong một ngày, đã phải trải qua biến cố lớn như vậy. Trong nháy mắt, có nhà mà không thể về, có người thân mà không thể nương tựa, trở thành đứa trẻ lang thang tội nghiệp. Lúc đó là cha đưa cậu ra theo cửa sau, chỉ về phía một con đường lớn, nói với cậu rằng đó là con đường dẫn đến núi Hoa Sơn, nhưng bản thân trong lúc đầu óc mê man, hoảng loạn không biết đã chạy theo đường nào, cũng không biết đã đến nơi đâu. Nhìn thấy sắc trời đã gần tối, không có nơi nương tựa, bản thân mình vẫn còn không biết xoay xở thế nào, cảm thấy tủi thân cậu bất giác lớn tiếng khóc òa lên. Không ngờ tiếng khóc của Trầm Hương lại kinh động đến một vị Tiên nhân đi ngang qua đó. Vị đại Thần Tiên này, tự xưng là “Vô Tri Đạo trưởng”. Vị Vô Tri Đạo trưởng này, không ai biết được rằng ông ta đã đắc Đạo thành Tiên từ khi nào, bản thân ông cũng không còn nhớ được rằng mình đã đắc Đạo được bao nhiêu năm rồi. Chỉ là nhớ được rằng đã tận mắt trông thấy bãi bể nương dâu của nhân gian này thay đổi từng lần từng lần, không biết là đã bao nhiêu lần. Vô Tri Đạo Thưởng bấm quẻ xem thử thì biết được đứa trẻ này quá là có duyên với mình, có lẽ đây là thiên mệnh trời đất sắp đặt cho Ngài trọng trách này. Đúng lúc ấy, Đạo Trưởng đã thực hiện quyết định của mình.
Vô Tri đạo trưởng đến tìm Trầm Hương nói rõ ngọn ngành, cậu bé hiểu ra lập tức khấu đầu lạy tạ ân sư, đạo trưởng nói: “Trầm Hương đồ nhi, từ hôm nay trở đi, người làm sư phụ đây sẽ dạy cho con mười tám loại võ nghệ, bảy mươi hai phép biến hóa, để mà đi cứu mẹ ruột thân đang gặp nạn ở Hoa Sơn kia”. Lúc đó, Vô Tri Đạo trưởng lại lấy ra một viên Tiên đan đưa cho Trầm Hương, Trầm Hương nuốt xuống bụng, lập tức cơn đói liền tan biến, chỉ cảm thấy toàn thân khỏe mạnh. Thì ra đây chính là Tiên đan mà Vô Tri Đạo trưởng luyện được, không những đỡ đói, mà còn có thể tăng cường thể chất và tinh thần của con người. Người phàm ăn rồi, có thể không ăn không uống, còn có thể kéo dài tuổi thọ, sống đến hàng trăm tuổi.
Lại thấy Sư phụ tay chỉ lên trời một cái, một đám mây ngũ sắc bay đến, ông bảo Trầm Hương đi lên, nhắm hai mắt lại, tự mình cưỡi lên mây, rồi bay lên. Trầm Hương mở mắt xem thử, thì thấy mình đang ở trong một ngọn núi lớn. Bốn mặt chỉ thấy núi non trùng điệp, cây xanh bạt ngàn. Sư phụ từ trong lỗ tai móc ra một viên đá nhỏ trong suốt lớn cỡ như một hạt đậu, đặt lòng bàn tay, thoáng một cái, viên đá đó lập tức thuận theo chiều gió mà lớn dần lên, mỗi lúc một lớn. Một lúc sau, đã biến thành một gian nhà lớn, Trầm Hương theo Sư phụ đi vào trong, phòng khách, sân sau, hiên nhà, nhà bếp, phòng ngủ, tất cả đều đầy đủ cả. Hết thảy mọi thứ cần dùng cho sinh hoạt đều có đầy đủ cả. Từ đó, Trầm Hương liền theo sư phụ Vô Tri Đạo trưởng, mỗi ngày học tập võ nghệ, Đạo trưởng cũng dạy cho cậu một số bài công phu tọa thiền,…
Thấm thoát đã 8 năm trôi qua, Trầm Hương đã 16 tuổi rồi, trở thành một thiếu niên tuấn tú, nhanh nhẹn. Hôm nay, sau khi luyện võ công xong, Sư phụ gọi Trầm Hương đến, nói: “Đồ nhi à, Sư phụ biết tấm lòng mong mỏi cứu mẹ của con, không có ngày nào là không nhớ nghĩ đến mẹ. Con mỗi ngày đều chuyên cần khổ luyện, ta thấy võ nghệ của con ngày càng thông thạo rồi, nhưng nếu như muốn đến Hoa Sơn chẻ núi cứu mẹ, vẫn còn thiếu một số bảo vật. Thứ nhất cần phải có được Huyên Hoa Khai Sơn Thần phủ kia, mới có thể chẻ núi Hoa Sơn, phá trừ bùa chú đè núi của Nhị Lang Chân Quân. Cần phải đến ngọn núi ở vùng Đông Hải, trong núi có một cái hang, cây rìu thần chính là đang được cất giữ trong cái hang này.” Vô Tri Đạo nhân nói xong, kéo Trầm Hương cưỡi lên mây, chưa đến một khắc hạ áng mây xuống. Trầm Hương xem thử, thì thấy mình đang đứng dưới chân một ngọn núi lớn. Sư phụ chỉ về phía một ngọn núi cao nhất, nói với chàng rằng: “Con nhìn thấy ngọn núi kia không? Cái hang đó chính là ở trên đỉnh của ngọn núi đó. Con có thể đi lên theo đường núi này, trên đường đi, sẽ có mấy quan ải, có thể vượt qua được hay không, đành phải hoàn toàn dựa vào bản thân con vậy”.
Sau khi vượt qua một đồi núi, trước mắt xuất hiện một cái hồ lớn chắn ngang đường đi. Nếu muốn tiếp tục đi lên đỉnh núi, thì phải đi sang bờ bên kia mới được. Chỉ thấy cái hồ này rộng lớn vô biên, điều kỳ lạ chính là hồ nước này hoàn toàn tĩnh lặng, ngay đến một chút sóng gợn cũng không có, thật khiến người ta cảm thấy không sao đo lường được, cũng không biết độ sâu là bao nhiêu. Đang nhìn ngó chung quanh, xem xem có đường có thể đi vòng qua hay không, bỗng nghe thấy bên tai có tiếng nói rằng: “Trầm Hương, nếu con muốn đi đến đỉnh núi, lấy được rìu thần, thì cần phải từ trong hồ nước này bơi qua. Hồ lớn này có tên là hồ Sinh Tử. Phàm là những người muốn vượt qua hồ nước này, cần phải là những người không sợ chết. Tham sống sợ chết, nhảy vào trong nước, nước này tự sẽ phân biệt được, hễ vào trong nước, khó mà sống sót trở ra được”.
Lời còn chưa nói dứt, đã tung mình nhảy xuống hồ. Nước trong hồ hệt như tấm lụa, thân thể nhảy vào trong nước, trơn trượt vô cùng. Chỉ thấy nước trong hồ quấn chặt lấy toàn thân, thẳng vào từng thớ thịt. Thật là có cảm giác đau đớn như bị hàng ngàn hàng vạn mũi kim đâm. Chàng vội vàng tĩnh tâm nín thở, giữ vững tinh thần, bơi sang bờ bên kia. Trầm Hương cắn chặt răng, ra sức gắng gượng bơi về phía trước, theo đó cảm giác đau đớn kia cũng từ từ biến mất. Cánh tay, bàn chân lại đều có cảm giác trở lại, còn cảm thấy hai cánh tay càng lúc càng có sức lực, không biết rằng mình đã bơi được bao lâu, cuối cùng bơi sang được bờ bên kia rồi. Tương truyền ai vượt qua được nước hồ Sinh Tử sẽ có thể thay da đổi thịt, cường tráng bội phần. Trầm Hương cảm thấy sức lực tràn trề, chàng nhìn lại mình trong nước hồ thì thân thể cao lớn tráng kiện mấy phần. Nghĩ đến lại tiếp tục đi tìm bảo vật về cứu mẹ.
Trầm Hương lúc này đây vì đã được nước trong hồ tôi luyện, nên đi trên đường núi mau lẹ như bay, cứ như là đi trên đất bằng vậy, ung dung lạ thường. Một lát sau, lại đến một nơi, chỉ thấy trước mắt là một biển lửa rộng lớn mênh mông, trải dài khắp núi đồi, chắn ngang trước mặt.
Lúc này lại nghe âm thanh từ ngọn đại sơn kia: “Đây chính là Hỏa Diệm sơn. Hỏa Diệm sơn này, lửa nơi này không giống với Hỏa Diệm sơn của nhân gian, mà là Tam Muội chân hỏa. Người phàm đi vào ngay tức khắc sẽ bị thiêu hủy đến không còn sót lại dấu tích gì. Trầm Hương, hay là quay trở về đi. Hà tất phải mạo hiểm lớn như vậy? Tam Muội chân hỏa này, chuyên thiêu đốt cái tâm vọng niệm của người đời, phàm là những người có cái tâm cầu danh cầu lợi, đều khó mà ra khỏi biển lửa, không thể sống sót trở ra được, nhưng thử hỏi trên đời này có ai có thể buông bỏ tâm danh lợi cơ chứ? Vậy nên xưa nay chưa hề có ai có thể đi qua được. Cậu có muốn thử không? Hễ bước vào rồi thì không thể nào quay trở ra được nữa.” Trầm Hương nói giữa đất trời: “Trầm Hương này, nếu không phải vì để cứu mẹ, tôi sẽ không bao giờ để cho em trai Thu Nhi đi đền mạng, vậy thì tôi đã từ lâu không còn trên cõi đời này rồi, còn cầu danh, cầu lợi gì nữa chứ? Danh lợi chẳng khác gì bùn đất, cứu mẹ mới là đại nghĩa”.
Một mình lao vào biển lửa, hơi nóng thiêu đốt thân thể. Trầm Hương dũng khí bước thẳng, tự niệm ngọn lửa kia vốn cũng là sắc không, vẫn là không tồn tại. Lúc này kì tích đã xuất hiện, những hàng lửa đỏ nép mình mở đường cho Trầm Hương tiến bước. Khi ra khỏi biển lửa, nhục thân chàng lại không hề có một vết thương nào, tự cảnh tỉnh mình phải luôn đề phòng, không biết sẽ còn kiếp nạn nào sắp tới nữa đây. Từ xa có tiếng pháo nổ vọng lại, âm thanh như những loài dã thú đang chạy bầy. Kì thực có một con hươu, một con cọp và một con thỏ chạy đến. Âm thanh lại từ không trung vang vọng: “Chúc mừng Trầm Hương, ngươi đã vượt khỏi hồ Sinh Tử, lửa Danh Lợi, ba con thú kia là vật hiến tế nơi động Thần Phủ, ngươi chỉ cần giết chúng lấy máu tươi để tế thần thì sẽ lấy được rìu thần.” Trầm Hương không nói gì, chỉ đi thẳng về ngọn đại lĩnh phía trước, đến nơi chắp tay khấn rằng: “Trầm Hương vượt muôn kiếp nạn để cứu mẹ nhưng lại không thể vì tư sự của bản thân mà giết hại sinh linh vô tội, nếu có thể, xin lấy máu chính mình tế lễ.” Cửa động quả nhiên mở ra, ánh sáng của rìu thần chói lọi khắp nơi. Chàng cầm lấy bảo vật, bên trên có ghi: “Năm trăm năm sau, Lưu Trầm Hương là người phá bỏ miếng bùa này.” Trầm Hương gỡ bỏ bùa thần, sư phụ từ xa đằng vân bay đến.
Lại nói đến ở Quán Giang Khẩu, chuyên chức là vị Thần chấp pháp tuần tra khắp thiên giới, chuyên quản việc chư Thần lớn nhỏ trong tam giới vi phạm thiên quy giới luật rồi đưa ra sự trừng phạt. Chuyện của Thánh Mẫu nương nương này, ông từ sớm đã nắm rõ sự tình. Không lâu sau khi Lưu Ngạn Xương rời khỏi Hoa Sơn để vào kinh thành ứng thí, Chân Quân niệm động Thần chú, lệnh cho Đại Lực Thần, dời chuyển núi Hoa Sơn, núi Hoa Sơn liền nhô lên khỏi mặt đất mà bay lên không trung. Lúc này, Thánh Mẫu đang ngồi ngay ngắn tọa thiền trong miếu, không biết làm sao, toàn thân bỗng bay lên không trung, rồi lơ lửng hạ xuống mặt đất, núi Hoa Sơn liền từ trên đầu chụp xuống. Nhìn lại lần nữa, toàn thân của mình đã thay một bộ tù phục màu trắng, bị đè dưới núi Hoa Sơn, ở bên trong một cái hang động chật hẹp. Trong lòng bà lập tức minh bạch rằng mình đang bị chấp pháp Thiên Quy. Như vậy, Thánh Mẫu ở trong thiên lao, thiền định một mạch đã là 16 năm của nhân gian, hôm nay biết được con ngoan báo hiếu sẽ đến cứu mẹ đã lệnh cho Triều Hoa nghênh đón. Lúc này Trầm Hương cùng với Sư phụ đã đến núi Hoa Sơn, Triều Hoa chỉ dẫn, lên thẳng đến ngọn núi chính, Trầm Hương giơ cây rìu thần lên, dùng hết sức lực bình sinh, kêu lớn một tiếng: “Mở!”. Chỉ nghe thấy rìu kia giáng xuống, mặt đất rung chuyển, tiếng vang thấu trời, muôn đạo kim quang. Chỉ thấy núi Hoa Sơn chia tách thành hai, từ giữa Thánh Mẫu thăng thiên, chân cưỡi mây lành ngũ sắc, y phục tiên tử, kèm theo ánh hào quang rực rỡ. Lúc này lại nhìn thấy từ trên đỉnh núi Hoa Sơn có một tấm bùa chú màu vàng bay xuống, Thánh Mẫu giơ tay đón lấy, bên trên có viết: “Mười sáu năm sau Trầm Hương chẻ núi cứu mẹ”.
Ngày nay ở trên đỉnh núi phía tây của Hoa Sơn, còn có một tảng đá lớn dài hơn mười trượng đứt ra thành ba đoạn. Bên cạnh tảng đá lớn có cắm một cây rìu sắt hình lưỡi liềm cao bảy thước nặng hơn ba trăm cân, nghe nói đó chính là Khai Sơn Thần Phủ mà Trầm Hương năm xưa đã dùng để chẻ núi Hoa Sơn cứu mẹ.
Hãy đăng ký thành viên tại đây để có thể bình luận & đóng góp nội dung bạn nhé.