Ðọc kinh sách Phật, chúng ta thấy thường thuyết pháp ở “Tịnh Xá Kỳ Hoàn hay Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc viên” cũng thế.
Ðược truyền tụng hơn hết, Tịnh xá này là công trình kiến tạo to tát của ông Tu Ðạt Ða, một Phật tử tại gia thuần thành tên tuổi được hậu thế luôn luôn nhắc nhở.
Tu Ðạt Ða, người ở thành Xá Vệ, xứ Ấn Ðộ, là tôi đại thần của vua Ba Tư Nặc và là một nhà giàu có nhất thời bấy giờ. Tánh tình hào hiệp ưa cứu giúp kẻ cô bần, hay làm việc bố thí, thi ân, khoan hồng với người dưới, khắp xứ đều biết danh, ông được người thời bấy giờ gọi tặng là Trưởng giả “Cấp Cô Ðộc”.
Tu Ðạt sanh được bảy người con trai. Chúng đều khôn lớn cả và có gia thất, trừ cậu út. Hình dung tuấn tú diện mạo khác thường, chàng có ý tự mình lựa chọn bạn trăm năm. Trưởng giả mới nhờ một thầy Bà La Môn tìm nơi mối lái.
Một hôm thầy Bà La Môn đến hóa trai ở một nhà nọ tại thành Vương Xá.
Một người con gái xinh đẹp tuyệt trần, đem vật thực ra dưng. Hỏi ra mới biết là ái nữ của Trưởng giả Hộ Di. Thầy yêu cầu xin tiếp chuyện với phụ thân của nàng. Thiếu nữ vào trong thưa lại, một chập sau thầy được ra mắt Trưởng giả và lấy thật tình tỏ ý mình muốn tác thành cho hai họ.
Vì đã được nghe đại danh của Trưởng giả Tu Ðạt Ða chẳng những là người giàu có muôn hộ, hay cứu giúp kẻ nghèo đói, cô bần, mà còn là một vị đại thần quyền thế ở thành Xá Vệ, nên không ngần ngại gì; Hộ Di vui lòng hứa lời cho đàng trai bước tới.
Nhân dịp có người khách buôn dong xe về Xá Vệ Bà La Môn liền gởi một phong thơ báo tin lành, ông Tu Ðạt tức tốc khởi hành, cho gia nhân chở theo rất nhiều châu báu.
Lúc đến nơi, thầy Bà La Môn đưa ông tới nhà ông Hộ Di. Ðàng gái hết sức vui mừng, tiếp rước trọng hậu. Nhận thấy tôi trai, tớ gái tấp nập cỗ bàn, Tu Ðạt Ða mới hỏi thăm duyên cớ. Trưởng giả Di cho biết sáng hôm sau ông sẽ làm lễ cúng dường Phật và chư Tỳ kheo Tăng.
– Phật là gì? Tu Ðạt hỏi
– Quan huynh chẳng nghe ư? Con vua Tịnh Phạn ở thành Ca Tỳ La Vệ, tên Tất Ðạt Ða, vì thấy khổ, sanh, già, bệnh, chết, buồn lòng không vui thú gia đình, bèn bỏ cung điện đi tu, sau sáu năm khổ hạnh, được trí huệ đầy đủ, thắng chúng ma vương, tự tại thần thông, quan minh chiếu diệu được người xưng tôn là Phật.
– Còn thế nào gọi là Tăng?
– Tăng chỉ các vị đệ tử của Phật đều là bậc sáng suốt giải thoát, có thể vì chúng sanh làm đám ruộng phước.
Tu Ðạt vui mừng vô hạn hỏi tiếp:
– Chẳng hay Phật và chư Tăng ở đâu?
– Tại một Tịnh Xá trong vườn Trúc ().
Trong đêm ấy Tu Ðạt Ða sanh lòng kính tin, lăn lộn không ngủ, trông mau trời sáng để đến ra mắt Thế Tôn.
Vừa bình minh ông đã trổi dậy, hỏi hướng rồi ra đi.
Tịnh xá Trúc Lâm vẫn còn yên tịnh, sương lạnh phủ dày, các Tỳ kheo còn đang thiền tọa. Tu Ðạt Ða đang ngơ ngác, thì đàng xa có bóng người tiến đến. Thì ra đó là Ðức Phật, bởi biết trước nên xuất thiền ra ngoài kinh hành. Vừa trông thấy tướng mạo nghiêm trang, oai nghi, đĩnh đạt của Ngài, Tu Ðạt Ða mừng quá quên cả lễ phép:
“Thưa ông, không biết đức Cù Ðàm đã dậy chưa? Ngài ở đâu? Tôi muốn gặp liền bây giờ được chăng?” Ðức Phật vui vẻ chỉ chỗ mời ngồi, rồi ôn tồn hỏi: “Ông tìm đức Cù Ðàm có việc chi? Chính tôi là người ông đang tìm”.
Biết là Ðức Phật và cảm kích trước lời nói của Ngài, Tu Ðạt Ða liền cúi mình làm lễ và tha thiết bạch rằng: “Lạy Ngài rũ lòng thương xót, mở lòng dạy bảo cho kẻ đệ tử đầy tội lỗi này!”.
Ðức Thế Tôn bèn nói Pháp: khổ, không, vô thường, vô ngã và Niết Bàn yên vui vắng lặng cho ông Tu Ðạt nghe. Khi nghe xong, ông quá đỗi vui mừng, liền nhiễm Thánh pháp, đắc quả Tu Ðà Hoàn, thí như miếng lụa trắng dễ ăn màu nhuộm. Trưởng giả bèn quì xuống, chấp tay lạy Phật: “Bạch Thế Tôn, những người ở thành Xá Vệ nghe pháp có thể dễ thâm nhiễm như con không?” Phật bảo: “Ông vì túc căn nên mới sớm ngộ như thế không phải ai cũng ngộ như vậy đâu. Vả lại dân thành Xá Vệ phần nhiều tin theo tà giáo, khó mà nhiễm thánh pháp”. Tu Ðạt bạch Phật: “Cúi xin Ngài thương xót, rủ lòng đại từ quang lâm Xá Vệ đánh chuông cảnh tỉnh để người theo tà quay về lẽ chánh”.
Phật bảo: Phép của người xuất gia không được ở chung chạ với người thế tục, bên ấy không có Tịnh xá thì làm sao ta và các Tỳ kheo sang ấy ở được.
– Ðệ tử xin phát tâm kiến tạo Tịnh xá mong Phật từ bi hứa khả cho.
Ðức Phật yên lặng, tỏ dấu hứa chịu.
Mấy hôm sau, khi lo vợ cho con xong ông Tu Ðạt trở lại rừng Trúc bái Phật xin phái một vị đệ tử đi theo chỉ bảo cách thức xây cất Tịnh xá. Ðức Thế Tôn nghĩ rằng ở Xá Vệ bọn Bà La Môn rất nhiều, họ tin tưởng xằng bậy những điều không hợp chánh lý thế nào họ cũng ra mặt tranh đương, người kém tài kém đức, khó bề hàng phục được họ. Chỉ có Xá Lợi Phất trước là dòng dõi Bà La Môn thông minh đa trí, hiểu rõ nội bộ của họ đi mới có lợi. Phật liền sai Xá Lợi Phất đi theo Tu Ðạt sang Xá Vệ.
Dọc đường Tu Ðạt hỏi Xá Lợi Phất: “Ðức Phật đi bộ bao nhiêu dặm trong một ngày?” Xá Lợi Phất đáp: “Chừng nửa do tuần”. Ông Tu Ðạt bèn cứ hai mươi dặm là mướn người cất một khách xá (nhà tạm) để khi Phật sang Xá Vệ, đêm có chỗ tạm nghĩ.
Khi về đến nhà, Tu Ðạt và Xá Lợi Phất trải qua mấy ngày vất vả và vẩn chưa tìm ra chỗ nào vừa ý. Một hôm đi ngang vườn cây của Thái tử Kỳ Ðà, thấy đất đai bằng phẳng, cây cối xum xuê. Xá Lợi Phất bảo Tu Ðạt: “Trong vười này cất Tịnh Xá được, vì không xa không gần thành; xa quá thì khó cho sự khất thực, còn gần quá thì ồn ào, loạn động khó yên tâm để tu hành”. Thấy Tu Ðạt ra chiều suy nghĩ, Xá Lợi Phất tiếp: “Phải chăng ông sợ không thể mua được chớ gì? Ông nên đến ướm hỏi Ðông cung xem sao”.
Ông Tu Ðạt liền đánh bạo đến ra mắt Thái tử Kỳ Ðà.
– Tâu Thái tử! Tôi muốn kiến tạo một Tịnh xá để thỉnh Phật và chư Tăng sang đây diễn giáo, nhưng tìm mãi không ra chỗ. Nay Thái tử có vườn cây tốt, rộng rãi, xin Thái tử vui lòng nhường, miếng vườn ấy lại cho tôi, công đức của Thái tử thật vô lượng vô biên.
Thái tử cả cười bảo: “Tôi đâu có thiếu thốn gì mà phải bán; vườn này để làm chỗ ngoạn thưởng trong khi nhàn rỗi, cho thư thả tâm hồn, bán đi thì làm thế nào?”.
Ông trưởng giả Tu Ðạt năn nỉ mãi. Thải tử tánh dễ cảm, song vì tiếc miếng vườn nên định làm thối chí ông Tu Ðạt:
– Nếu trưởng giả mua, xin đem vàng lót khắp mặt đất tôi sẽ bán cho.
– Vâng.
Thái tử hỏi hối:
– Tôi nói chơi như thế, chớ bán đi thì làm gì.
– Quân tử vô hý ngôn, Thái tử sẽ làm vua trị dân, nói bỡn sao được.
Tu Ðạt bèn vội trở về nhà hối gia nhân chở vàng đến lót. Khi đã phủ xong nơi đất liền. Trưởng giả suy nghĩ coi phải làm thế nào để lót mấy nơi bị cây mọc choán. Thái tử đến gần vỗ vai hỏi: “Thế nào Trưởng giả suy nghĩ gì? Nếu ông chê mắc thì thôi vàng ông chở về vườn tôi xin trả lại cho ông”.
– Không, tôi không nói mắc rẽ gì đâu, thưa Thái tử. Tôi đang suy nghĩ coi phải chở ở kho nào cho vừa đủ, khỏi đem đi đem về thất công và tính coi mấy gốc bao nhiêu vàng đấy chứ.
Thái tử Kỳ Ðà nghe xong hết sức ngạc nhiên, tự hỏi Phật là người thế nào mà Trưởng giả coi của cải như không, xem vàng ròng như đất cục. Thật kỳ lạ quá… Có lẽ là một thánh nhơn, đạo cao đức cả mới có thể cảm hoá được lòng người như thế.
– Thôi, Thái tử bảo, ông đừng chở vàng đến nữa, bây giờ đất vườn thuộc về ông, còn cây thuộc về tôi, tôi xin cúng cho Phật đấy.
Trưởng giả vui sướng quá. Ngay ngày hôm sau kêu thợ đo đất khởi công, còn Xá Lợi Phất thì vẻ bản đồ và chỉ bảo cách thức.
Song một trở ngại lại xảy ra. Phái Lục sư ngoại đạo Bà La Môn kéo nhau đến tâu vua Ba Tư Nặc: “Trưởng giả Tu Ðạt Ða mua vườn của Thái tử để kiến tạo Tịnh xá cho bọn Sa Môn Cù Ðàm xin bệ hạ cho phép chúng tôi cùng bọn kia tranh tài, nếu họ thắng được bọn tôi, chừng ấy họ mới được phép cất Tịnh xá và sang đây thuyết đạo, còn trái lại, thì ở đâu phải ở đó”.
Nhà vua liền triệu Tu Ðạt Ða vào triều vào bảo rằng: “Hàng Lục sư Bà La Môn không chịu có phái nào khác truyền giáo. Nay khanh mau vườn cất Tịnh xá để rước đồ chúng của Ðức Cù Ðàm về đây dạy đạo. Lục sư vào tâu khi nãy, xin cho hai phái cùng nhau một trận thư hùng, nếu họ thua thì khanh tự ý muốn làm gì thì làm, còn nếu phe Cù Ðàm thua thì đừng bén mảng đến đây. Muốn cho yên thuận, ta đã hứa với họ rồi, vậy khanh lo liệu thế nào cho chu tất”.
– Xin bệ hạ cho phép hạ thần trở về bạch lại với đệ tử của Ðức Phật xem sao.
– Ðược, khanh cứ đi, muốn cho bọn họ và công chúng biết được giá trị của đôi bên, ngoài phương pháp đó, không còn gì hơn nữa.
Trưởng giả cáo từ ra về, mặt luôn luôn dàu dàu, đầu óc miên man lo nghĩ: “Không rõ bên ta có thể thắng được không? Hơn chẳng nói gì, còn rủi thua thì khổ biết bao. Lục sư pháp thuật cao cường, lại bè lũ đông đảo, liệu một mình Ngài Xá Lợi Phất có đương cự lại chăng?”. Bao nhiêu câu hỏi làm lòng ông ngổn ngang lo sợ, đến nỗi về đến cửa nhà mà ông không hay.
Hãy đăng ký thành viên tại đây để có thể bình luận & đóng góp nội dung bạn nhé.