Ngày đó ở thành Ca Tỳ La Vệ, khi đức phật thích ca vẫn còn là hòang tử Tất Đạt Đa. Một hôm hoàng tử cùng vợ đi săn, dân thành Ca Tỳ La Vệ lo sửa soạn những cây cảnh trước nhà, họ xây những chậu hoa nào có màu tươi đẹp nhất quay mặt ra phía ngoài đường để đón chào vị Thái tử. Người ta chờ đợi nhìn khuôn mặt hiền từ với đôi lông mày dài và mềm lượn trên đôi mắt xanh như dòng nước biếc của sông Hằng, dáng điệu dõng dạc và thân hình nở nang của vị thiếu niên lúc nào cũng dẫn đầu một bọn lính kỵ vai đeo binh khí sáng chói, hùng hổ trên những con ngựa mập mạp. Ngày nào Thái tử dạo chơi thì đêm đó những tiếng đàn của các thiếu nữ trong thành vang lên, vừa quấn quýt, vừa não nùng, khiến cho những bông hoa xung quanh vườn hình như say nhạc mà quên mất hương của mình bay tận đâu đâu và những kẻ láng giềng cũng ngẩn ngơ bỏ dở việc làm ngồi thừ như .
Người ta uổng công chờ đợi chiều hôm ấy. Những bông hoa đẹp chỉ khoe sắc với khách qua đường. Ở phía cửa thành Thái tử đã bỏ dở cuộc đi săn. Thái tử Thích Ca thấy cảnh trái ngược giữa thân thể mạnh khỏe của mình như một cái cây đang lớn, với một hình vóc xấu xí của ông già kia như que củi khô: râu tóc bạc phơ bờm ra như lông lá của một con vật, thân ông cong quắp, tay với sát đất như chực bò.
– Có như vậy được chăng? Một người tráng kiện như ta bây giờ một ngày kia cũng thế?
Thái tử tự bảo rồi quay ngựa trở về.
Tối hôm ấy ánh trăng vằng vặc trên lâu đài nhà vua. Hoa kỳ cỏ lạ trong hoa viên sáng lên như ngọc. Vua Tịnh Phạn đã được thị vệ cho hay, Thái tử bỏ dở cuộc dạo chơi vì gặp một cụ già. Vua bèn mở ngay cuộc khiêu vũ dưới muôn ngọn đèn hoa để làm khuây Thái tử. Nhưng Thái tử Thích Ca vẫn không quên được ông già và màu râu tóc bạc hình như lại hiện về trên các khuôn cây ở hoa viên dưới ánh trăng bàng bạc.
Vua lo sợ săn sóc đến Thái tử như vậy, vì chỉ có một mình Thái tử là người kế vị. Thái tử là một thiếu niên anh tuấn mới 19 tuổi người đã thông thuộc cả các nghề. Nào thiên văn, địa lý, nghị luận, thi phú, văn chương, âm nhạc, hội hoạ, bói toán, phù chú, võ nghệ, trong nghề nào Thái tử cũng là người xuất chúng. Không những vì thế mà vua yêu quí, vua yêu quí Thái tử vì Thái tử là kết quả của cuộc nhân duyên đằm thắm giữa vua và hoàng hậu Ma Ha Ma Da. Thái tử là một mối tình thiên liêng của Hoàng hậu để lại cho vua ở thế giới này.
19 năm về trước, một đêm nằm mộng, Hoàng hậu thấy mình lạc vào khu rừng hoang vu. Một con voi trắng sáu ngà đến ve vuốt bà mãi. Một hôm biết mình thụ thai, Hoàng hậu mới đem chuyện ấy nói cho vua nghe. Vua đoán là một điềm mộng tốt và rất vui mừng vì vua đã 50 tuổi rồi và Hoàng hậu cũng xấp xỉ tuổi vua, nếu may ra, Hoàng hậu sanh được Hoàng nam, vua sẽ có người kế vị.
Theo tục Ấn Ðộ phải về nhà cha mẹ mà đẻ. Một ngày ở vườn Lâm Tỳ Ni nước Câu Ly quê hương của Hoàng hậu Ma Ha Ha Da, chim kêu không ngớt tiếng, mặt trời lên cao chói sáng hơn cả mọi ngày. Ðêm ấy các khóm hoa đều tỏa hương thơm ngào ngạt. Hoàng hậu Ma Da ra dạo ở vườn hoa của vua Thiện Giác (anh bà), thơ thẩn nhìn trăng bà nguyện cầu: “Hởi những đấng thiêng liêng hãy phù hộ con con tôi sau này trong sáng như mặt trăng kia, trí tuệ của nó sẽ rộng rãi bao trùm cả thế giới như ánh sáng mặt trăng”.
Sao dần dần thưa, trên bầu trời đen thẳm. Rạng đông bừng sáng một phía vườn. Hoàng hậu bỗng thấy đau bụng, bà tựa vào một cây Vô Ưu.
Mặt trời vừa lên tỏa ánh sáng vàng ửng khắp vườn Lâm Tỳ Ni, một trẻ lọt lòng xinh đẹp và toàn vẹn hơn cả những châu ngọc ở cõi trần. Trẻ ấy là Thái tử Thích Ca.
Từ hôm Thái tử bỏ dở cuộc đi chơi về, nét trầm ngâm vẫn thoáng trên gương mặt sáng lạng tinh anh… Muốn giả sầu cho Thái tử, ngày nào vua cũng đặt ra những cuộc chơi trong cung điện. Các bọn ca nhi vũ nữ cùng các đào hát thầy đàn tha hồ được dịp trổ tài. Vua lại còn ra “Chỉ” xem ai có vật lạ nghề hay đem vào cung để làm vui Thái tử đều được hưởng.
Người ta đem đến những thứ hoa quỳnh to bằng cái đĩa lớn, những hoa lài cánh ta bằng cái hồng, những hoa sen vàng nở lá bốn mùa, những cây chuối trăm buồng, những giống quái vật ở núi ở biển, những san hô, ngọc cùng các thứ chạm trổ khéo léo. Trong các thứ ấy có con ngựa làm cho Thái Tử chú ý đến. Con ngựa vừa đẹp vừa khôn ngoan. Mình mẩy đều đặn, bốn chân thon thon, nó đứng bên cạnh những con ngựa to lớn nhất trong cung, thì những con này cũng thành thấp bé, những hình hài của nó làm sao sánh nổi với màu sắc của nó, tròng đen trong mắt nó có một sắc đen lánh như hột huyền, móng chân của nó đi vào trong tối thì sáng lên như sừng tê giác, lông nó mướt và trắng như tuyết trên núi Hy Mã Lạp Sơn, bờm của nó óng ánh như tơ vàng mềm mại và ở quanh cổ nó có nhung vân màu ngũ sắc dợn lên như một cầu vồng. Chưa hết đâu, người ta lại khéo đeo hai chân trước nó hai cái lục lạc âm dương, lúc ngựa chạy tiếng nhạc hoà lên một điệu xao xuyến và huyền bí như tiếng suối chảy trong đêm khuya, giọng chim riú rít trong rừng xa. Có lẽ từ hôm được con ngựa ấy, Thái tử cũng khuây được nỗi buồn. Nhưng đêm đến, vua còn sợ không có gì để giải trí cho Thái tử, nên bày ra không ngớt những cuộc vui. Ðêm hôm ấy cũng như mọi hôm, trong cung đều có múa hát trà tiệc, dưới ánh những cây nến có ngọn lửa to như bó đuốc, các vàng bạc ngà ngọc khảm trên các cây cột, trên trần nhà, trên các áo mão của người trong tiệc đều phản chiếu lên muôn ngàn màu sắc lạ. Hương trầm ở bốn phía tỏa ra ngào ngạt và rượu trong những cốc thủy tinh đủ màu như muôn hoa ở một vườn xuân, các vũ nữ đều thi tài múa hát, thân hình uyển chuyển theo âm nhạc như những gợn sóng, mặt mày tươi như những hao sen một buổi sớm mùa hạ. Ðiệu múa rất tự nhiên. Chân tay họ như làm bằng một thứ sáp, thứ bột gì rất dẻo tha hồ để cho một bàn tay vô hình uốn nắn. Một người chưa thấy cảnh ấy, nếu lạc vào đây e tưởng mình đã lên tiên. Nhưng những cảnh đẹp ấy đối với cặp mắt Thái tử quen lắm rồi. Ðêm ấy người ta mời một người con gái vừa tài vừa sắc đến giúp cuộc vui.
Các vũ nữ vừa kéo vào, một tiểu thơ quần áo trắng bước đến, nét mặt của nàng một cách ngây thơ và hồn nhiên. Trên tay nàng cầm một cây đàn chín dây, nàng cúi chào rồi quỳ xuống giữa chiếc thảm xanh như một đóa hoa mọc giữa một vùng lá biếc.
Người ta không rõ nàng đàn bản gì. Toàn xứ Ca Tỳ La Vệ chưa ai được nghe. Người nghe bản đàn ấy dầu có một mối sầu khó giải trong lòng cũng có thể nguôi được, dầu có tánh giận dữ đến đâu cũng thấy trở lại ôn hòa. Một bản đàn khiến cho người ta thấy sống ở cõi trần này là một cõi êm ái. Cứ mỗi lần nàng nghỉ tay, người nghe lại không biết từ đâu có tiếng chim rất trong nổi lên để tiếp theo. Nàng đã khéo luyện tập được một con chim khôn ngoan và bắt nó đậu trên cây đàn. Người ta tưởng con chim ấy hòa một bộ phận của một cây đàn, không ai ngờ những tiếng chim bay ra lại là của con vật xinh xinh kia. Ðàn xong, nàng cất tiếng hát. Chao ôi! tiếng hát lại trong bằng mấy tiếng đàn, khi lên khi xuống như hẹn hò trước với điều ao ước riêng của từng người. Trước khuôn mặt ngây thơ của người hát và giọng ngân trong trẻo, lòng ghen tuông của các cung tần không có thể có nữa.
Nàng dứt tiếng hát, Thái tử thấy khoan khoái, các người trong tiệc như ngây như dại, từ nãy đến giờ nín hơn để nghe, bây giờ mới dám thở ra. Thái tử quay lại mỉm cười, một người thị vệ đã nhanh nhẩu tâu: “Tâu Thái tử! Nàng Ưu Ðà Di, dòng dõi Bà La Môn”.
Như có mặt trời trên mình ngựa, Thái tử vui vẻ hầu như xóa được nỗi buồn xưa. Thị vệ được vui lây nên có người dám vui đùa như những lúc Thái tử không có gì phiền não. Thái tử đối với người hầu tử tế như anh em. Một người thị vệ thưa Thái tử.
– Thái tử có nhớ cái nhà trồng rất nhiều hoa ở phía nam hoàng thành?
– Nhà ấy có gì lạ, ngươi sẽ bảo ta nghe!
– Bẩm Thái tử! Ở đó có những tiếng nhạc, mà không có ai xứ này được nghe, họa may có một mình tôi.
Thái tử mỉm cười nhớ lại cái đêm nghe đàn trong cung.
– Hay hơn tiếng nhạc của Ưu Ðà Di chăng? Thế thì ngươi hãy dẫn ta đi đến đó.
– Bẩm Thái tử chính là Ưu Ðà Di.
– Sao ngươi bảo chưa ai được nghe?
– Bẩm Thái tử một đêm rất khuya, một đêm mà kinh thành Ca Tỳ La Vệ đều say trong giấc ngủ, hôm ấy tôi được nghỉ, phóng ngựa về thăm nhà. Lúc qua đấy tình cờ nghe được tiếng đàn thanh thót ở ngôi nhà kia đưa ra. Tôi dừng ngựa ngơ ngẩn quên mất việc về thăm nhà. Bẩm Thái tử, tôi đã nghe một khúc hát kỳ lạ hơn khúc hát ở trong cung hôm trước.
– Thế thì ta rẻ lối này.
Thái tử Thích Ca vừa nói vừa rẽ ngựa sang tay trái, các thị vệ đều mỉm cười sung sướng bước theo người.
Vó ngựa rầm rộ trên đường sỏi, gió thổi cái bờm óng ánh tơ vàng của con ngựa đi qua lớp áo nhung trắng cài khuy đỏ của Thái tử. Cái khăn trắng lớn trùm ngang trán để lộ ngọc bào, một nốt thịt nổi cao giữa hai hàng lông mày và phủ ngoài mớ tóc đen như mun, sợi tóc nào cũng uốn tròn về phía hữu.
Dưới màu trời xanh thẳm, ở trước mặt Thái tử xa xa một thành phố hiện lên trong quang đãng. Thái tử, trong một phút, đã nghĩ đến những nóc nhà kia là của thần dân dưới quyền vua cha. Mà trong đám nhà ấy, lại có ngôi nhà của người con gái tài hoa. Thái tử lại hình dung người đánh đàn hôm trước.
Vừa lúc ấy có những tiếng rên khừ khừ bên đường lọt vào tai Thái tử. Thái tử quay lại hỏi thị vệ:
– Hình như có người rên, các ngươi hãy lắng tai nghe có phải chăng?
Các thị vệ lắng tai nghe rồi đồng thanh trả lời:
– Bẩm Thái tử quả có.
Tiếng rên rõ lắm ở trong một bụi cây bên đường. Bên bụi cây, một người đen đủi gầy đét, đầu đã rụng tóc, da đầu lòi ra như sọ dừa, khắp thân mình đều lỡ lói ghê sợ, cả thân hình bệnh nhân xông lên một mùi rất hôi hám khiến cho người xem không dám đến gần. Tên ấy là một tên hủi thuộc về phái Bà Li A, là một phái hạ cấp ở Ấn Ðộ bị khách qua đường đá vùi xuống đấy như một con vật, vì không ai muốn gần một người bệnh ở một giai cấp mà người ta cho là hèn mạt. Nghe tiếng có người đến gần, nó gần đưa hai tay cụt bàn như hai cái càng lên trời và đôi mắt nó gần như mất hết tròng đen cũng cố mở để nhìn lên cao. Như tuồng nó không còn tin rằng những người đồng loại của nó còn thương xót nó. Trước cảnh ấy Thái tử buột miệng than:
– Còn cách gì chữa được nữa chăng?
Một người theo hầu tiếp trả lời:
– Bẩm như đến bệnh hủi ghê gớm kia thì không còn phương thuốc gì chữa được.
Thái tử Thích Ca cởi áo mình – cái áo nhung trắng có cúc đỏ và chỉ vàng thêu ở trước ngực đắp cho kẻ kia rồi cùng thị vệ quay về.
Trên đường về, đôi mắt Thái tử Thích Ca trở nên buồn bã, lúc nào trên gương mặt cũng tỏ dáng đăm chiêu suy nghĩ. Vua tìm hết cách để làm cho Thái tử vui mà cũng không có hiệu quả gì. Tình cờ một hôm vua sực nhớ đến người con gái đánh đàn. Vua ngẫm nghĩ, có lẽ Thái tử buồn bực vì cảnh cung cấm có vẻ tiều tụy, cung tần mỹ nữ không biết trang điểm, không có tài ăn nói để giải buồn Thái tử, họa may còn có con bé này; hôm trước ta nghe những khúc hát của nó cũng phải mê mẩn tâm thần, thấy mình quên hết những phiền muộn ở đời. Ừ mà phải, nó là dòng dõi Bà La Môn, tài gì mà không có sức học uyên thâm, giới hạnh nghiêm chỉnh. Ta sẽ nhờ nó xem sao.
Nghĩ như vậy bèn sai người mời Ưu Ðà Di vào cung, nàng khiêm tốn tâu rằng:
– Tâu Hoàng thượng, ân đức Hoàng thượng hầu khắp cả thần dân trong nước, ai ai lại không truyền tụng, tôi như hạt bụi dưới ánh mặt trời, như bọt nước trong bể cả. Bấy lâu chỉ biết tận hưởng những ân huệ cao siêu của Ngài, bây giờ Ngài ủy thác cho công việc theo hầu Thái tử tôi rất lấy làm vui, nhưng cũng lấy làm sợ.
– Nàng Ưu Ðà Di, tài đức của nàng sắc đẹp của nàng ở đây ai lại không biết, hãy nhân dịp này để tỏ lòng trung thành của nàng.
Hôm ấy vua đến khuyên Thái tử:
“Ðã biết bao lần ta phải nhắc lại rằng ta chỉ còn một mình con ở trên đời này là ta quý mà thôi. Ðã biết bao lần con làm ta phải âu sầu nhớ đến mẹ con chăng? Ôi? nếu con biết những sự mong mỏi của mẹ con lúc tuổi tác cao mà vẫn chưa thai nghén, nếu con biết những lúc mẹ con cùng ta sung sướng với giấc mộng kỳ lạ của mẹ con. Ôi! Nếu con biết những nỗi hân hoan của mẹ con lúc mang con trong lòng cầu nguyện cho con sau này được hơn người. Cứ mỗi lần con không vui ta bùi ngùi tưởng nhớ đến mẹ con và tiếc rằng không còn mẹ con ở đây để dỗ dành con hộ ta”.
– Thưa cha, con đã là đứa con bất hiếu, con xin từ nay yên vui để cha bằng lòng, để linh hồn mẹ con được nhẹ nhàng trên chín từng trời thẳm. Mẹ con bây giờ còn làm sao gặp được con nữa, mà con cũng vậy, hình ảnh mẹ con còn có tìm đâu được ở trần giới này.
Như biết được Thái tử Thích Ca sắp rơi vào bẫy của mình, vua vẫn ôn tồn không lộ vẽ sung sướng của mình.
– Lời con nói nhắc ta nhớ đến một việc mà ta quên hẳn đi.
– Thưa cha nhớ lại việc gì?
– Còn một người sống ở thành này rất giống mẹ con ngày xưa.
– Thưa cha người ấy là ai con muốn tìm cho gặp.
Phải, ý nghĩ của con rất hay, vì tội nghiệp cho con, con vừa ra đời được bảy hôm thì mẹ con vội từ giả vườn Lâm Tỳ Ni, người con muốn chẳng ai xa lạ, chính là nàng Ưu Ðà Di, người đánh đàn hôm trước.
Tối đó ở hoa viên, Ưu Ðà Di ngồi trên một ghế da trước mặt vua và Thái tử. Trăng Ấn Ðộ tỏa một thứ ánh sáng huyền ảo trên thành quách, những cây trắc cao vút như muốn níu theo điệu nhạc do chính dây tơ dưới mười ngón tay tài tử đưa ra bên cạnh, những khóm lài đầy trĩu những hoa có hương ngào ngạt khiến cho những người hầu đứng bên dẫu có chất phát cho mấy cũng trở nên mơ mộng như nhà thi sĩ.
Hôm sau vua ban cho cha mẹ Ưu Ðà Di vàng ngọc châu báu để rước nàng vào cung. Tuy được trọng thưởng ông bà cụ không khỏi buồn vì xa con.
– “Vàng ngọc châu báu có quý đâu bằng tình mẹ con. Xa con mẹ lấy làm đau lắm. Con hãy còn nhỏ, rồi đây ai săn sóc con. Tuy vậy lệnh nhà vua không ai dám trái. Mẹ cầu nguyện cho vua và Thái tử sẽ yêu mến con như thầy mẹ đối với con vậy”.
Ưu Ðà Di an ủi mẹ:
– “Con đã lớn rồi mẹ ạ! Lẽ đâu con phải bắt mẹ lo lắng cho con. Hoàng tử người rất hiền lành, như mẹ đã thấy những khi Ngài dạo trước cửa nhà ta. Con sẽ cố làm cho Ngài vui, thế nào Ngài cũng chiều con như mẹ vậy”. Ông cụ ít bịn rịn hơn, khuyên con:
– “Con đã 15 tuổi rồi đó, gắng mà giữ gìn tâm tính. Con phải luôn luôn khiêm tốn nết na như những ngày sống gần thầy mẹ vậy, vì chức vị của cải dễ làm hư tâm tánh con người lắm đó. Thôi con cứ vui đi, thầy mẹ cũng mừng cho con”.
Ưu Ðà Di cúi đầu vâng lời cha mẹ, rồi nàng chạy tìm em, một cậu bé đang loay hoay dán một con diều nhỏ.
– Em ở lại vui vẻ nhỉ! Ðừng làm phiền cha mẹ, rồi lúc nào chị sẽ đem quà bánh về cho em. Em sẽ thay chị cho các con vật mình nuôi ăn uống. Luôn luôn săn sóc chứ đừng đánh đập nó.
Nói đoạn nàng kéo tay em ra vườn để thăm lại những cảnh vật thân yêu. Cây khế mà dưới gốc nàng đã bao lần ngồi hát, ngồi đàn cho cả nhà nghe.
– Nàng đi còn có ai mà hát dưới đêm trăng nữa?
Cây huệ than:
– Ai vuốt ve tôi? Tôi nở hoa cho ai?
Hoa hồng nũng nịu:
– Tôi lấy tóc ai mà bíu nữa?
Ưu Ðà Di trả lời:
– Các bạn ơi, thầy mẹ tôi và em tôi lại săn sóc hơn tôi nữa kia.
Ðàn ngỗng lúc bấy giờ ở dưới nước lại kéo lên:
– Rồi đây ai chìa tay cho chúng tôi mổ?
– Em tôi sẽ đưa bàn tay xinh xắn hơn tôi cho các ngươi.
Nước trong hồ cũng phụng chịu:
– Chiều chiều ai soi bóng trong lòng tôi nữa?
– Còn có em tôi soi bóng trong lòng của ngươi, em tôi còn ngoan ngoãn hơn tôi, đẹp đẽ hơn tôi.
Bồ câu và các thứ chim trong vườn cũng bay đến.
– Nàng đi thật đấy à? Vắng nàng chúng tôi hót cho ai nghe đây và ai hát cùng chúng tôi?
– Có thầy mẹ tôi và em tôi nghe những điệu thánh thót của các ngươi, giọng em tôi còn tốt hơn giọng tôi, sẽ hòa cùng các người.
Con chó lúc bấy giờ cũng chạy quấn quít bên chân nàng:
– Nàng đi, ai vuốt ve tôi và dắt tôi đi dạo?
– Em tôi vẽ vui đùa với ngươi.
Lúc ấy con chim nhỏ của nàng nuôi ở đâu cũng bay đến:
– Tôi nhất định theo nàng.
– Em sẽ theo ta và đậu trên cây đàn của ta.
Lúc cha mẹ và em đưa ra đến cửa, nàng như nhớ việc gì, quay lại bảo em:
– Em có nhớ những nhà tu hành ngày ngày đến xin ăn trước cửa, em sẽ kính cẩn em các thức ăn ra biếu lấy em ạ.
Ở cửa xe ngựa đã sẵn sàng để đón lấy nàng vào cung điện. Những người theo hầu nghiêng mình chào đón.
Về cung, Ưu Ðà Di tìm hết cách để làm cho Thái tử vui. Trước vẻ hồn nhiên của người con gái ấy, Thái tử không thể buồn được nữa. Ngày nào Thái tử cũng cùng với nàng cưỡi ngựa đi dạo trong khu vườn rộng thênh thang. Bên cạnh những đóa hoa tươi sắc, những lá biếc xum xuê biết hót bằng tiếng chim. Vợ Thái tử là bà Da Du Ðà La rất yêu mến nàng vì nhờ nàng bày vẻ những điệu hát những bài đàn cho con bà. Ưu Ðà Di lấy những lời rất dịu dàng để khuyên bảo như chị với em. Ðối với những người hầu hạ lúc nào nàng cũng tỏ ra là một người vừa nhũn nhặn vừa khoan dung. Nàng lại đem lòng yêu mến tất cả những người xung quanh nàng. Nàng lại biết tự tay đi hái những lá thuốc để chữa bệnh cho những người ở bên nàng trong cơn nguy hiểm.
Nhưng ở đời hễ được nhiều người mến chuộng thì lại tăng phần căm tức ghen tuông của những đứa tiểu nhân. Cũng may ở trong cung chỉ có một người ngầm ghét Ưu Ðà Di mà thôi, người đó là một cung tần tên là Sai A.
Một bữa Ưu Ðà Di vào phòng mình thấy quần áo treo trên móc đều bị con gì nhấm thủng cả, mà căn phòng cao ráo ấy làm gì có dán hay chuột. Hôm khác nàng thấy cây đàn tự nhiên đứt mất mấy dây, nàng phải nhọc công một buổi để buộc dây cho đúng điệu. Có hôm nàng săn sóc chậu hoa quý định đem bày ở phòng sách của Thái tử. Buổi sáng hoa ở chậu vừa nụ xinh tươi, thế mà chiều đến nàng phải khóc, vì không thấy hoa ở trên cành nữa. Ưu Ðà Di đoán có ai ngầm hại mình, nhưng nghĩ mãi cũng chẳng biết là ai, vì trong cung mọi người đối với nàng đều tử tế cả. Nhưng trong khi nàng không biết ai ngầm hại mình, Sai A lại càng nghĩ ngợi những mưu kế ghê tởm để ngầm hại. Nhưng hắn không ngờ làm một việc dữ chưa chắc hại nổi ai mà mình lại bị điều dữ đến cho mình.
Một tối hắn biết thế nào Ưu Ðà Di cũng ngủ rất say vì nàng phải đàn khuya, hắn khuyên một đứa tớ rất trung thành của hắn lén vào phòng của Ưu Ðà Di theo lời dặn của hắn.
Ưu Ðà Di thiêm thiếp ngủ trên chiếc nệm trắng tinh, đôi tay nho nhỏ của nàng trong giấc ngủ vẫn không rời cây đàn chín dây. Con chim xinh xinh đang đậu ở đầu giường. Cái dáng điệu ngủ đáng yêu và vô tội ấy, ai nỡ đứng trước mà nghĩ đến những chuyện giết hại được.
Lúc ấy con hầu của người cung tần vừa đến bên người lính canh ở trước phòng của Ưu Ðà Di. Nó toan lấy thuốc mê ra bỏ theo lời dặn của Sai A nhưng nó lại ngầm nghĩ: anh này say ngủ như chết, có bỏ cũng phí, để lát nữa ta bỏ cho cô bé này cho nhiều, càng nhiều càng mê lâu ta càng dễ hành động.
Nó mỉm cười, mất cả lo lắng từ trước, bước sang người anh lính hầu ngủ lăn trên đất. Nó mở cửa lẻn vào phòng Ưu Ðà Di, con chim thấy động kếu ríu rít và đến mổ tay người con gái đang ngủ. Nhưng vì nhọc Ưu Ðà Di say mê như không biết gì. Con hầu của Sai A tức khắc rút một ít thuốc rẩy trên mắt nàng và đưa tay xua đuổi con chim. Chim sợ sệt bay lên ở một góc phòng, nhưng nó vẫn kêu ríu rít. Con thị tỳ lại rút trong túi ra một cái hộp con. Nhưng tay nó dừng phắt lại. Trước khuôn mặt hiền từ đang nằm ngủ say, nó cảm thấy như đứng trước một vật gì trong sạch, rất quý báu, nó muốn ôm chầm lấy để thu tất cả mọi tội lỗi. Nó quay đi không nỡ làm hại con người đang ngủ ấy nữa. Ngực nàng Ưu Ðà Di nhẹ nhẹ lên xuống hình như nàng ngủ một giấc vô cùng êm ái. Nhưng con thị tỳ quay lại sực nhớ phần thưởng của Sai A hứa cho nó. Ðồng tiền bao giờ cũng có một sức mạnh xúi giục người ta dễ làm bậy. Phần vì ham tiền thưởng, phần vì sợ nếu không được việc sẽ bị chủ hành hạ, con thị tỳ mắm miệng quay vào. Nó quả quyết rút cái hộp ra. Nếu nó lanh tay một tý thì người con gái hiền hậu kia không còn ở trên đời này nữa, nhưng tay nó run lật bật, một con rít trong hộp đáng lẽ rơi trên mình Ưu Ðà Di, lại cứ bíu lấy hộp rồi bò thẳng lên tay nó, nó khiếp sợ quá thét lên, lúc ấy tên lính hầu vừa tỉnh giấc và con hầu của Ưu Ðà Di ở phòng bên cạnh nghe tiếng rú chạy vào. Con nữ tỳ của Sai A không tài nào thoát khỏi. Trong lúc kinh khủng nó thú cả tội lỗi. Không mấy chốc nó bị điệu cổ vào nhà giam xét hỏi và những viên lương y đã đến giải thuốc mê cho Ưu Ðà Di. Cơ mưu của Sai A bị tiết lộ. Vua tức giận lắm định đem giết kẻ làm việc ác đức ấy đi cùng với tên thị tỳ đã giúp việc cho hắn. Ưu Ðà Di được tin ấy động lòng thương hại xin cho những kẻ kia được nhẹ tội. Cảm lòng nhân đức của nàng tuy phải tù tội, nhưng tránh được cái chết, lấy làm ăn năn tội ác của mình, từ ấy thề sẽ chữa lại tâm tánh. Còn những kẻ ở trong cung càng yêu mến người con gái nhân đức kia.
Hết cái nạn ấy, Ưu Ðà Di được sống vui vẻ bên cạnh Thái tử. Thường hai người cùng đánh cờ, cùng đọc sách, cùng hòa đàn. Thật là đôi thiếu niên sung sướng trong đời này vậy. Tuy thế có những việc xảy đến mà không bao giờ người ta ngờ có được, hôm ấy đoàn ngựa của nhà vua lại ung dung kéo ra cửa thành phía đông. Mặt trời quang đãng trên con đường phẳng, đoàn ngựa chạy dưới bóng hai hàng cây kè kè lá xòe ra như những cái quạt lớn. Qua những cây ấy, Thái tử nhìn thấy những người cày ruộng mình trần trùi trụi cùng với những con trâu hì hục cày bừa trên những thửa ruộng lầy lội. Một luồn gió mát thổi qua, Thái tử bất giác nghĩ đến cái khoái trá trên mình ngựa dưới bóng cây râm mát và cái cảnh lam lũ của những người làm ruộng kia dưới ánh nắng mặt trời gay gắt. Cảnh tượng ấy, Thái tử đã gặp từ năm còn nhỏ trong một cuộc dạo chơi với vua cha. Thì ra lòng thương xót của người không theo thời gian mà thay đổi. Cảnh tượng ấy vừa qua, đi được một lát, đoàn ngựa gặp phải một vật gì lù lù nằm choáng cả lối đi. Một tên thị vệ tâu:
– Bẩm Thái tử cho tôi đến trước xem vật gì nằm choáng ngang đường. Nói đoạn, hắn phi ngựa chạy đến trước. Lúc Thái tử cùng bọn hầu đến gần thì thấy người thị vệ đã xuống ngựa hất cái vật kia qua một bên đường, vật ấy cứng đờ như một khúc gỗ.
– Bẩm Thái tử, thây một kẻ chết, nó vừa nó vừa vọt lên ngựa định theo Thái tử nối tiếp cuộc đi chơi, nhưng Thái tử gò cương lại nhìn cái xác chết mà ruồi nhặng đương tha hồ đục khoét. Thái tử thấy lòng se lại ngồi nghĩ đến đời sống của con người thật là khổ: suốt đời chỉ thấy lo lắng bâng khuâng, bệnh hoạn, già nua, chết chóc. Nghĩ vậy, Thái tử không thiết đến cuộc đi chơi nữa. Những thị vệ trông thấy Thái tử trở lại buồn rầu, lo quá. Chúng bèn bàn nhau đưa Thái tử về hoa viên rồi mời Ưu Ðà Di ra khuyên dỗ Thái tử. Ưu Ðà Di vội vã ra vườn. Nàng thiết tha như một nàng tiên trong cảnh bồng lai. Tuy vậy, Thái tử vẫn điềm nhiên ngồi trầm tư bên một gốc cây. Ưu Ðà Di lại gần nỉ non.
– Thưa Thái tử, có phải hôm nay Thái tử buồn vì như lời thị vệ nói Ngài đã gặp những cảnh thương tâm chăng? Nếu vậy sao Ngài không nhân trời tối này đi dạo cho khuây khỏa lại cứ ngồi giữ kín mối sầu làm gì vậy? Hay là tại lỗi tôi không kịp theo hầu Thái tử chăng?
Thái tử vẫn điềm nhiên không đáp:
– Thưa Thái tử, Ngài không nhớ một hôm trong vườn hoa, Ngài đã bảo tôi là em gái Ngài, tôi có nét mặt giống Hoàng hậu không đủ làm cho Ngài vui sao?
Thái tử nhìn thấy đôi mắt long lanh sáng của người con gái quỳ trước mặt, ra lệnh cho nàng đứng dậy:
– Tôi không muốn nàng biết nỗi buồn của tôi, bởi nàng cũng như đóa hoa vô tư kia.
– Thưa Thái tử, những đóa hoa kia cũng biết buồn rồi đó, hôm nay tôi thấy hoa nào cũng ủ rũ cả, như thế không thật sao?
– Hoa nào lại có thể giữa màu sắc được bền lâu.
– Thưa Thái tử đời cũng vậy, ai lại không đau ốm, bệnh tật và chết.
– Nhưng cái chết của cây cỏ không máu mủ thịt xương, còn con người, con vật đến lúc bệnh hoạn có khi làm cho không ai có thể đứng gần bên được. Vì vậy tôi biết người sinh ra thì khổ nên tôi muốn tìm cách để trừ cái khổ ấy đi. Tôi đã hết cách tiêu khiển. Có cái gì tôi muốn mà không được. Thế mà cách để được yên vui tôi, làm sao tôi yên vui được lúc tôi nghĩ đến không làm sao tìm được bên cạnh đời no ấm xa hoa của tôi, biết bao nhiêu người khổ sở lăn lóc ốm đau, già nua bệnh hoạn.
Ưu Ðà Di không biết phân giải thế nào bèn đến quỳ tâu bên Thái tử nét mặt rầu rầu. Lúc ấy nhận thấy vì mình mà những người xung quanh phải khổ lây, Thái tử gượng cười đứng dậy cùng Ưu Ðà Di đi dạo quanh vườn. Những người hầu từ nảy đến giờ lo ngay ngáy, sợ nếu Thái tử còn buồn thì sẽ bị vua cha quở mắng, lúc bấy giờ cũng tươi lên. Chim chóc từ bốn phía vườn cũng bay lại hòa thành khúc nhạc rất vui. Những hoa huệ bổng vươn mình lên trắng xóa khắp vườn làm cho những hoa bướm khác tăng phần rực rỡ.
Tuy cố gượng vui nhưng nét mặt trầm tư của Thái tử, nhiều lúc vẫn lộ ra không giấu được. Vua lại tìm hết cách để làm cho Thái tử khuây. Ðàn hát xướng ca không ngớt. Tuy vậy hình như không có kết quả gì mấy. Một hôm vua cha bảo Ưu Ðà Di: Từ nay con hãy chiều chiều hầu Thái tử ra vườn hoa cửa Bắc mà ta vừa mới lập xong. Con sẽ mỗi ngày thay một thứ áo xinh đẹp để cùng với những thiên nhiên ở đấy làm vui cho Thái tử, vì ta chắc không ai có thể bằng con trong việc này. Những đình tạ hoa nước trong vườn kia không phải chỉ riêng cho Thái tử, đó là phần thưởng ta tặng cho con đó để chung vui cùng Thái tử.
Chiều ấy song trên mình ngựa Thái tử Thích Ca và Ưu Ðà Di đi trước một đoàn thị vệ áo hầu rực rỡ. Ưu Ðà Di chỉ những màu sắc tươi đẹp ở một bụi cây, trên mặt nước, hay ở một khoảng trời lần lượt hiện ra hai bên đường. Thái tử Thích Ca luôn luôn mỉm cười nhưng trong đôi mắt vẫn phảng phất một mối buồn không dứt được.
Vườn hoa cửa Bắc của vua Tịnh Phạn là một vườn hoa đẹp nhất xứ Ấn Ðộ. Trong vườn có cả các thứ cây quí hoa lạ ở các nơi đem đến. Những giống chim giống thú đỗ ở các miền xa, những đường lối sạch sẽ như mặt bàn trải thảm, những nệm cỏ xanh tươi, những hồ nước trong leo lẻo in bóng, những đình tạ nạm vàng mạn ngọc chói lên ánh sáng rực rỡ.
Vào vườn không thể lấy mắt mà đếm những màu sắc của hoa thú trong ấy. Ðến bên cạnh hồ da thịt mát rượi, hương lên nồng nàn. Người ta tưởng các thứ nước hoa Ấn Ðộ đều là lấy ở đó ra. Nói tóm lại, như chắt lọc ở khu vườn này tất cả cái tinh túy của vũ trụ thần tiên.
Tuy vậy, Thái tử cũng nhìn qua loa cảnh vật rồi tìm một góc cây ngồi nghĩ và bảo người hầu đem Ưu Ðà Di đi dạo các nơi. Mọi người đang dụ dự Thái tử quả quyết:
– Các ngươi hãy vâng lời cho ta vui. Ưu Ðà Di nàng hãy đi dạo chơi vì chỗ này mát mẻ nên tôi ngồi đây một lát, tý nữa tôi sẽ theo.
Thái tử ngồi một mình bên gốc cây suy nghĩ. Bao nhiêu những cảnh xưa lại hiện về trong óc. Những phút sung sướng, những lúc đau buồn, những cảnh hào nhoáng xa hoa, những kẻ tật bệnh đói rét, những thảm trạng của đời người lần lượt diễn ra trong trí của vị Hoàng tử. Ðang lúc ấy, một người đầu không tóc mình khoác một manh áo xấu xí, tay chống gậy đi đến. Nhưng dáng điệu thì uy nghi, đôi mắt thì lóng lánh như có luồng điện. Thái tử thấy trong điệu bộ lạ lùng của người này có vẻ huyền bí, khác hẳn với những người thường ngày đã gặp trong cung. Thái tử hỏi:
– Ông ở đâu lại?
– Tôi ở khu rừng ở xứ này.
– Ông làm gì ở đây?
– Bẩm, tôi làm kẻ tu hành theo tìm học đạo.
– Tu hành là người thế nào?
– Là một kẻ chuyên suy nghĩ đến những lý lẽ của mọi sự, mọi vật, để tìm tòi những phương pháp phá hết các sự phiền muộn đang buộc con người với đời không thiệt, được đó mất đó, để về sau hết kiếp này khỏi chịu kiếp khác.
Nói xong ông thầy dùng phép thần thông bay bỗng lên không lẫn với màu sắc huyền ảo của hoàng hôn.
Thái tử mừng reo lên:
– Hay lắm! Hay lắm! Ta quyết tu thế nào cho được cho như vậy mới nghe.
Ưu Ðà Di và kẻ hầu đã quay về. Tuy dưới ánh nắng hoàng hôn mà ai nấy cũng đều lấy làm lạ rằng Thái tử Thích Ca trở nên vui vẻ.
Ðêm ấy Thái tử tâu với vua cha cho theo tu hành như ông thầy tu kia. Vua giật mình khuyên can.
– Ai gieo vào cho con cái tư tưởng điên rồ ấy? Con không phải là nhà vua trên muôn ngàn dân ở xứ này sao? Bây giờ con lại làm một ông thầy tu cực khổ, rách rưới, thì ta nhục nhã biết bao nhiêu; dòng dõi vua chúa không phải đến đây là hết?
– Thưa cha, công đức của cha mẹ như trời như bể. Con sống ở giữa châu báu ngọc ngà, giữa những sự nưng niu, chiều chuộng, không còn thiếu gì nữa. Tuy vậy bấy lâu nay con vẫn bị những phiền muộn mà không được vui gì, không vàng ngọc gì làm khuây khỏa được. Nay tình cờ con gặp được một vị tu hành nghe có mấy lời của người mà lòng con như cất được gánh nặng từ bấy lâu nay đèn nén. Vậy xin vua cha cho con được xuất gia, đó là một cách yên vui hoàn toàn vậy.
– Ta đã hết sức chiều Thái tử, nhưng đến việc này ta không thể nghe theo. Con là con nhà vua, con sẽ là nhà vua, ta chỉ biết có thế, con đừng xin nài gì nữa.
Từ đấy vua truyền lệnh cho những người hầu canh giữ trong cung rất nghiêm ngặt. Thái tử đi đâu là người theo, tuy vậy nghĩ đến chuyện xuất gia, Thái tử vẫn luôn luôn vui vẻ.
Ðêm nào cũng vậy, ở các cửa thành vẫn có lệnh canh nghiêm nhặt, lại có lính đi tuần tiểu. Thái tử Thích Ca vẫn ngày đêm lo nghĩ về kế xuất gia.
Một đêm Thái tử đợi cho trong cung cấm không còn một tiếng động, nhẹ nhàng nhỏm dậy khoác áo, dắt vào mình một thanh kiếm ngắn. Qua mấy cánh cửa sổ để mở, trời đêm chỉ còn nhấp nhánh sao mờ, Thái tử vươn mình từ trên cửa sổ tầng thứ ba nhảy xuống vườn hoa.
Thỉnh thoảng lính hầu lại vác cung đi qua lại. Thái tử Thích Ca vừa rơi xuống đất, thì nhún mình nhảy vào một nhóm lài để tránh những quân lính canh. Vừa lúc ấy một bóng đen ở bên cũng nhảy xổ theo. Thái tử Thích Ca nhanh nhẹn khóa hai tay người ấy.
– Bẩm Thái tử, tôi đây ạ.
Nghe giọng nói Thái tử Thích Ca nhận được tiếng của Xa Nặc, người hầu trung thành của mình.
– Ngươi làm ta giật mình tưởng quân gác, thế đã xong chưa?
– Bẩm lũ kia uống rượu tẩm thuốc mê ngủ lăn ra cả. Tôi định vào đây để mời Thái tử đi ngay. Tôi nhắm cái cửa sổ Ngài vừa nhảy qua, nhưng quân canh lúc ấy chưa đi khuất.
– Thôi chúng ta nhanh chân chứ, ngựa đâu?
– Bẩm dưới cây dừa nước đằng kia.
Hai người len qua các nhóm cây rồi lên ngựa. Trong đêm chân con ngựa của Hoàng tử sáng lên như bốn ngọn đèn xanh. Tuy vậy lính canh không ai biết cả. Anh nào cũng đang đánh một giấc ngủ ngon. Không mấy chốc hai con ngựa đã nện móng trên con đường vắng vẻ ngoài thành Ca Tỳ La Vệ. Phố xá lâu đài im lặng đang êm giấc trong đêm khuya, dưới trăng sao mờ mờ, dần dần bị bỏ lại biến xa trong đêm mù, rồi tan mất, Thái tử vừa đến một khu rừng rậm:
– Xa Nặc trung thành ơi, thôi anh hãy về, mang con ngựa về tặng Ưu Ðà Di vì ta không muốn một ai theo ta vào trong rừng rú.
Xa Nặc toan kêu nài, Thái tử bèn ra hiệu nên vâng lời về ngay.
Xa Nặc buồn rầu dẫn con ngựa về. Lúc quay lại bóng Thái tử vừa khuất trong rừng rậm.
Trời vừa tảng sáng, Ưu Ðà Di nghe có tiếng gọi nho nhỏ nhưng cấp bách ngoài cửa. Ưu Ðà Di vừa mở cửa. Xa Nặc đã hớt hải thưa:
– Bẩm cô nương, Hoàng tử tặng cô con ngựa quý, tôi đã buộc nó ở bên ngoài, thôi xin chào cô nương tôi đi chịu tội đây.
Ưu Ðà Di sửng sốt níu áo Xa Nặc hỏi chuyện đầu đuôi. Xa Nặc đem câu chuyện thuật lại, Ưu Ðà Di khóc sướt mướt, Xa Nặc an ủi:
– Thưa cô đây là ý muốn của Thái tử, lẽ nào cô nương không muốn Thái tử vui hay sao?
Tuy vậy nàng vẫn không thể đè nén lòng mình, bỏ mặc Xa Nặc ngồi đấy, ra ngoài lấy ngựa của Xa Nặc phóng như bay ra ngoài hoàng thành trước những lũ quân ngơ ngác. Xa Nặc ngồi lại một mình lắc đầu buồn bã. Ngoài sân chim rũ lông đầy cả lối đi.
Ba ngày lưu lạc trong rừng rậm, người nhọc bụng đói mà vẫn không tìm được Thái tử. Ưu Ðà Di đã ngã gục bên ngựa, một tối thứ ba, đến lúc mở mắt dậy nàng thấy trong mình nhẹ nhõm khác thường. Một người mình trần trùi trụi không râu không tóc, nhưng với những đường nhăn trên mặt trên mình có vẻ đã nhiều tuổi lắm. Ưu Ðà Di bủn rủn cả người, nàng liếc thấy con ngựa của mình đang đứng bên một gốc cây định chạy lại lấy ngựa để trốn. Người kia gọi giật lại:
– Nàng Ưu Ðà Di.
Nghe gọi đúng tên mình, nàng quay lại kinh ngạc nhưng cũng cố can đảm xem thử người nào lại biết mình.
– Cô không nhớ tôi sao?
– Thưa cụ tôi không được rõ.
– Nàng không nhớ nàng đã cho tôi cơm ở nhà nàng hay sao? Nàng chóng quên thế?
Tưởng rằng ma quỷ hiện lên ám ảnh mình vì nàng không nhớ người ấy là ai. Tuy vậy nàng vẫn giữ lễ phép trả lời.
– Phải, tôi biết cô đang bận tìm Thái tử phải không?
Nghe người đoán đúng ý nghĩ mình, nàng vội kên lên:
– Cụ ơi, Hoàng tử ở đâu cụ bảo giùm tôi. Thái tử đi lốIinào hở cụ?
– Thái tử đã đi xa rồi cô ạ. Cô hãy ngồi yên đây rồi tôi sẽ giúp cô.
Ưu Ðà Di vâng lời nghe theo.
– Không giấu gì cô, tôi là một kẻ tu hành lâu năm ở chốn rừng này học được ít phép mầu nhiệm, đã đoán biết những việc đã qua và sắp xảy đến. Ðêm qua nhìn một ngôi sao tôi biết rằng Thái tử sẽ xuất gia, tôi rất vui mừng, vì thế nào Hoàng tử sau này cũng sẽ là một vị đại cứu thế.
– Thưa cụ, thế tôi có gặp được Hoàng tử không?
– Nàng hãy yên tâm, Hoàng tử đã vào rừng sâu khó lòng mà gặp được, nhưng nàng hãy vui đi, vì thế nào Ngài cũng thành Phật mà tế độ chúng sanh.
– Phật là thế nào? Bẩm cụ có uy quyền, có sung sướng hơn Hoàng tử không?
– Chính chúng tôi cũng cố tu để một ngày kia được thấy ánh sáng của Phật đây. Phật là đức đại từ đại bi thông thuộc hết những lý lẽ cao siêu, những nguyên nhân huyền bí để chỉ vẽ chúng ta tránh xa con đường tội lỗi khổ sở, các ông hoàng làm sao sánh kịp.
– Thế liệu Hoàng tử có thành Phật được không? Ngài có về với chúng ta không?
– Thế nào Ngài cũng thành Phật, một đức Phật xưa nay chưa từng có ở thế giới này. Thôi tôi chỉ nói chừng ấy cho cô vui, cô nên nghe tôi về ngay nhà vì chính là lúc cô nên về theo sự suy đoán của tôi, cô hãy cưỡi ngựa chạy về nhà đi, tôi sẽ đưa cô ra khỏi rừng này, đây mấy viên thuốc cô hãy cầm lấy để cứu người. Bây giờ cô hãy ngậm một viên đi. Vừa ngậm xong tức thì nàng thấy trong người vui tươi tự kiếm được lời để tự an ủi mình:
– Hoàng tử rồi sẽ thành Phật, người sẽ về với chúng ta.
Ðến cổng nhà, nghe có tiếng khóc mới chạy vào thì thấy mẹ và em đang ngồi bên giường của cha. Ông cụ đang thoi thóp trên giường bệnh. Nàng cầm một viên thuốc bỏ vào miệng cha, tức thì ông cụ mở mắt chống tay ngồi dậy tỉnh táo như thường, nàng bèn lấy hai viên thuốc khác đưa cho mẹ và em tức thì ai nấy đều trở nên vui vẻ.
Bà mẹ ôm lấy em vào lòng:
– Tôi lại gặp được con tôi vui tươi hơn trước, thật là phước quá. Nhưng làm sao con lại về được đây?
Ưu Ðà Di đem mọi chuyện kể lại cho cha mẹ nghe.
Hai cụ đều tỏ vẻ sung sướng. Vừa lúc ấy, những cây cỏ ngoài vườn cũng đều reo lên, cây khế nói:
– Nàng đã về, nàng sẽ vui vẻ ca hát với chúng ta, ở bên gốc của ta.
Cây huệ:
– Ðêm nay tôi sẽ nở hoa trắng mướt cho nàng vuốt ve.
Cây hồng:
– Tôi sẽ bíu lấy tóc nàng, nàng ơi!
Con ngỗng:
– Nàng sẽ chìa tay xinh đẹp của nàng cho tôi mổ lúa.
Mặt hồ:
– Chiều chiều, nàng lại ra đây rửa chân, tôi lại được ôm bóng nàng.
Chim bồ câu và chim chích:
– Nàng lại cùng chúng ta hát đây.
Con chó:
– Nàng ve vuốt tôi đi, ve vuốt tôi đi.
Con chim từ ngày nàng rời cung điện vẫn bay theo nàng:
– Tôi sẽ luôn luôn đậu trên cây đàn của nàng.
Ưu Ðà Di tưởng những ngày mình sống trong cung điện bên cạnh vị Hoàng tử chỉ là một giấc mộng xinh đẹp để điểm trang cho đời sống của mình, từ đây nàng mới thật sống vui vẻ bên cạnh những cảnh vật lúc nào cũng âu yếm mình.
Hãy đăng ký thành viên tại đây để có thể bình luận & đóng góp nội dung bạn nhé.