Có một hôm, Đức cỡi mây chu du tay cầm bình Dương Chi, mình mặc áo bào trắng nhìn xuống và quan sát thế gian thấy người trần nào kêu cầu danh hiệu cứu khổ cứu nạn thì Ngài cứu độ.
Khi Ngài đến núi Phổ Đà ở địa phận Triết Giang quận Nam Hải, thấy núi non tráng lệ, cây cỏ xanh tươi, chung quanh có bể bao bọc, thì Ngài lấy làm mãn ý và nghĩ rằng:
“Tại chốn này nên lập một đạo tràng trang nghiêm để mở mang Phật Pháp, khiến cho chúng sinh có nơi cầu phước cầu tuệ. Tuy nhiên, núi này lại thuộc La Môn Xà Vương, vậy ta thử xuống hỏi mượn điạ điểm của y xem sao?”
Nghĩ như thế, rồi Đức Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ từ hạ mây giáng xuống núi Phổ Đà.
Ðây nói về La Môn Xà Vương vốn là một con rắn tu hành đã hàng nghìn năm và đã có phép thần thông. Hôm đó rắn biết Đức Quan Thế Âm Bồ Tát đến mượn đất Phổ Đà Sơn để mở ngôi đạo tràng, hắn muốn lánh mặt Bồ Tát, liền chui xuống đất để lộ cái đuôi ngoe nguẩy chọc lên trời, trong chẳng khác chi một cây cổ thụ cao chót vót mà không có cành có lá chi cả. Nhưng cái thủ đoạn thần thông nho nhỏ của y làm sao mà che mắt được vị Quán Thế Âm Bồ Tát là bậc đại trí tuệ, đại thần thông? Khi Đức Quán Thế Âm xuống bên cạnh cây Xà Vương, liền vịn tay vào thân cây, mỉm cười và tự nói:
– Cây đại thụ này không cành không lá, chắc là đã chết khô rồi, ta há nên chặt đem về làm đồ dùng.
La Môn Xà Vương nghe thấy nói vậy thì hoảng hồn. Còn đang bối rối, lại nghe Đức Quán Thế Âm Bồ Tát nói:
– Xà Vương! Nhà ngươi không cần giả vờ ẩn dấu để trốn tránh ta. Ta có câu chuyện hay muốn nói với nhà ngươi đây!
La Môn Xà Vương nghe Bồ Tát nói thế, tự biết là trốn tránh không khỏi, liền rút đầu ra khỏi đất hỏi Bồ Tát muốn nói chuyện gì? Đức Quan Thế Âm Bồ Tát liền bày tỏ ý kiến muợn núi Phổ Đà làm nơi thiết lập đạo tràng. La Môn Xà Vương nghe xong cự tuyệt ngay:
– Không được, đây là chỗ con con cháu cháu đời đời kiếp kiếp của rắn tôi dùng làm chỗ căn cứ để ở. Người có uy đức gì mà dám nghĩ đến chuyện mượn núi Phổ Đà này của tôi.
Bồ Tát trả lời:
– Ta đây không có đại oai thần lực như Đức Phật Tổ, nhưng vì ta thay người tế độ chúng sanh nên không thể không xin nhà ngươi bố thí cho chút phương tiện là mượn dãy núi này.
La Môn Xà Vương nghe rồi tỏ vẻ bất phục vì hắn nghĩ rằng: “Ta tu hành ít ra cũng có hàng ngàn năm nay và có phép thần thông quảng đại, liệu Quán Thế Âm Bồ Tát có thể đấu phép với ta được chăng?”. Nghĩ như thế rồi hắn liền nói với Bồ Tát:
– Nếu Bồ Tát chỉ biết đến Phật Tổ mà không cần đếm xỉa gì đến Xà Vương ta đây, thì đây không ngại gì mà không đấu phép với Bồ Tát một phen. Nếu Bồ Tát không thắng thì xin tự tiện rút lui đi nơi khác chớ đừng hy vọng gì mượn núi này.
Bồ Tát nói:
– Tốt lắm, nếu nhà ngươi không thắng nổi ta, thì núi này ta được tùy ý được dùng mà nhà ngươi không được hối hận ảo não chứ gì? Vậy nhà ngươi định đấu thứ phép gì đây?
La Môn Xà Vương gật đầu và mỉm cười:
– Ta đây không hối hận cũng không ảo não chi hết, miễn là Bồ Tát chịu thừa nhận rằng: Phàm đất đai trong núi này ta sẽ vươn mình bao bọc được đến đâu là ở trong khoảng đó, Bồ Tát không được mượn. Bồ Tát gật đầu, La Môn Xà Vương liền vận dụng thần công đại lực vươn mình dài ra khoanh lấy núi Ðà Sơn. Nhưng kỳ lạ thay! Bình thường hắn dùng phép vươn mình ít ra cũng quấn được tới ba lần, nhưng hôm nay trước mặt Bồ Tát phép thần thông của hắn tan mất, hắn cố hết sức vươn mình cho dài tưởng chừng như đứt cả đầu đuôi ra làm hai đoạn, thế mà mình vẫn không dài ra được chút nào. Lúc đó La Môn Xà Vương mới thấy sức thần thông của mình không bằng Bồ Tát nên có ý duyệt phục mà giải hòa rằng:
– Thưa Bồ Tát! Tôi thực có mắt mà không nhìn thấy núi Thái Sơn, đức thần thông của tôi quả không địch nổi Bồ Tát. Nhưng có một điều khó xử là: Con con cháu cháu gia đình, nhà tôi tôi biết ở chốn nào?
Bồ Tát vui vẻ trả lời:
– Nếu nhà ngươi phát tân hoan hỷ cho ta mượn núi này thiết lập đạo tràng thì nhà ngươi sẽ được công đức vô biên, còn con cháu nhà ngươi vẫn ở nguyên đây như cũ.
Xà Vương có ý ngần ngại không quyết?
– Thưa Bồ Tát làm sao để người và rắn ở chung cùng nhau. Bởi vì người sợ rắn, rắn sợ người, đôi bên nhất định phải tàn sát lẫn nhau mất. Nay Bồ Tát bảo con cháu tôi cứ ở nguyên núi này, thì tối thiểu tôi và Bồ Tát phải lập một điều ước: “Nếu giống rắn tôi con nào xâm phạm đến tín đồ phật giáo thì rắn đó sẽ do Bồ Tát xử phạt, nhược bằng tín đồ nào sát hại đến loài rắn chúng tôi thì tín đồ đó sẽ bị tôi bắt thường mạng, chẳng hai tôn ý nghĩ biện pháp đó như thế nào?”.
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát nhận rằng Xà Vương nói đúng bè lập đính ước với Xà Vương. Từ đấy Phổ Đà Sơn trở thành đạo tràng Quán Thế Âm Bồ Tát, chùa chiền được dựng lên rất nhiều, Tăng Ni cũng lại ở rất đông, những khách du lịch thập phương thấy núi này non xanh nước biếc hùng vĩ vô cùng, đều rủ nhau đến hành hương nghe giảng kinh Phật. Chỉ hiềm một nỗi chỗ nào chỗ nấy đều nhan nhản có rắn nhỏ rắn to ẩn nấp làm cho phải kinh hoảng hãi hùng. Tuy nhiên các rắn này đã nghe lời giáo thị của Xà Vương, cho nên kể hàng bao nhiêu năm chưa từng thấy rắn cắn một người nào. Trên núi cũng đã có cắm bảng cáo thị thông tri của nhà Chùa: “Các tín đồ và du khách không được làm hại rắn”. Cho nên đôi bên người và rắn bình an vô sự, không xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Trên núi này có một số rắn nhân thường ngày nghe mõ sớm chuông chiều, cùng tiếng tụng kinh niệm Phật mà phát tâm tu hành rồi thoát khỏi kiếp rắn cũng không phải là ít.
*
Có một em nhỏ tên là Tiểu Ðinh thường quen tính chơi nghịch tinh quái, hay đi quấy phá tổ chim, bắt di, bắt sẻ về chơi, nghe nói phong cảnh trên núi Phổ Đà rất đẹp, có nhiều chim muông thì có ý muốn lên đó sục sạo lung tung một phen cho hả dạ, đã mấy lần nó năn nỉ cha mẹ cho theo lên núi, nhưng vì thấy bản tính nghịch ngợm của nó nên lần nào cũng bị từ chối khiến cho Tiểu Ðinh trong lòng buồn rầu sinh oán cha mẹ. Một ngày kia Tiểu Ðinh quyết trốn cha mẹ một mình lên Phổ Đà Sơn.
Khi đến chân núi thấy người đi lễ Phật rất đông lũ lượt qua lại như mắc cửi. Thiện nam, tín nữ cũng không quản đường xa trời nắng, không ngại đói khát mỏi mệt, đều theo nhau trèo lên núi với vẻ mặt cực kỳ thành khẩn niệm cầu. Tiểu Ðinh vội vã bước theo tới khi miệng khát, chân mỏi nó liền ngồi lên một cái ghế dài đặt trước cửa điện Tam Bảo. Lạ thay! Khi ngồi xuống, toàn thân cảm thấy mát mẻ lạ lùng nó nở một nụ cười mãn nguyện và lên tiếng khen chiếc ghế:
– Cha chả phiến đá đại lý thạch quý hóa làm sao, trên mặt có bao nhiêu là điểm điểm, chấm chấm coi thật sướng mắt và lại lạnh như băng sương, mát đến gan ruột khiến cho những người mỏi mệt ngả lưng lên trên thì tiêu hết được khí nóng nực và quên cả sự mỏi mệt đi đường, Tiểu Ðinh đang lẩm bẩm một mình khen chiếc ghế, bỗng có một người hành khất ở bên đường nghe thấy phì cười bảo Tiểu Ðinh:
– Hỡi người bạn nhỏ ngây thơ của tôi ơi! Thử nhìn lại chiếc ghế xem, nó không phải chiếc ghế làm bằng đá đại lý đâu. Ðó là lưng con mãng xà đấy, con mãng xà này đã tu hành hơn ba trăm năm nay rồi, nó phát nguyện lấy thân làm ghế để mọi người ngồi nghỉ chân, tiêu sự nóng nực trong khi leo núi mỏi mệt.
Tiểu Ðinh nghe xong nhảy phắt dậy, mặt trắng phệt cắt không còn một tí máu, nổi gai khắp người nó gương to đôi mắt rồi hỏi người ăn mày:
– Thế đầu rắn và đuôi rắn đâu sao không thấy?
Người ăn mày thấy Tiểu Ðinh vẫn còn run rẫy bất giác cười và nói rằng:
– Không những chiếc ghế này là con đại xà mà cả chiếc ghế đối nhiện cũng là đại xà nốt, vì hai con rắn này sợ thiện nam tín nữ trông thấy hình rắn mà sợ nên đầu nó chui vào trong cung Tam Bảo mà không ai nhìn rõ được; còn đuôi nó thì cắm sâu dưới đất. Tuy nhiên bạn đừng sợ, ở trên núi Phổ Đà này rắn chưa từng hại một ai cả! Miễn là chúng ta đừng nghịch phá và ghết hại dòng họ rắn.
Hãy đăng ký thành viên tại đây để có thể bình luận & đóng góp nội dung bạn nhé.